Lưu ý những nội dung phải có của một số hợp đồng giao kết tiêu dùng

Trong đời sống sinh hoạt tiêu dùng ngày nay, hầu hết quan hệ giao dịch giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (doanh nghiệp) và người tiêu dùng được xác lập thông qua các thỏa thuận, hợp đồng tiêu dùng. Trong đó, xuất phát từ lý do như tận dụng lợi thế doanh nghiệp, để tiết kiệm chi phí soạn thảo, thời gian đàm phán riêng lẻ với người tiêu dùng, không ít doanh nghiệp đã lựa chọn hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung do chính họ soạn thảo để giao kết với người tiêu dùng. Với những dạng hợp đồng được soạn sẵn như vậy, người tiêu dùng thường không có cách nào khác ngoài việc (i) từ chối giao kết nếu không đồng ý với bất kỳ điều khoản nào, hoặc (ii) đồng ý giao kết đồng nghĩa với việc phải chấp nhận toàn bộ các nội dung điều khoản do doanh nghiệp đưa ra.
Thông thường, khi giao kết hợp đồng, các bên luôn muốn cụ thể hóa thỏa thuận về mục đích, đối tượng, quyền và trách nhiệm của mỗi bên,… thông qua nội dung của hợp đồng. Song trên thực tế, có không ít những hợp đồng theo mẫu được doanh nghiệp soạn thảo một cách sơ sài, đơn giản, thậm chí thiếu đi những nội dung “đáng lẽ” cần phải có, là nền tảng quan trọng cho việc đảm bảo quá trình thực thi hợp đồng. Trong khi đó, vì không được trực tiếp thỏa thuận, người tiêu dùng có thể sẽ phải gánh chịu những rủi ro, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của mình một khi chấp nhận giao kết với những hợp đồng thiếu rõ ràng như vậy, nhất là trong trường hợp phát sinh tranh chấp. Do đó, yêu cầu về tính đầy đủ, toàn diện, rõ ràng về mặt nội dung của hợp đồng theo mẫu/điều kiện giao dịch chung là điều cần thiết để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng trong các giao kết hợp đồng.
Về vấn đề này, Điều 398 Bộ Luật Dân sự (BLDS) quy định:
  “1. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng.
2. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây:
a) Đối tượng của hợp đồng;
b) Số lượng, chất lượng;
c) Giá, phương thức thanh toán;
d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên;
e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
g) Phương thức giải quyết tranh chấp.”

Với vai trò là bộ luật gốc điều chỉnh các quan hệ dân sự, BLDS không đưa ra quy định mang tính mệnh lệnh/bắt buộc về nội dung của hợp đồng, mà chỉ quy định theo hướng gợi mở về những nội dung “có thể có” trong hợp đồng. Không phụ thuộc và ngoài những nội dung này, các bên có thể thống nhất thỏa thuận các nội dung khác trong hợp đồng, tùy thuộc vào ý chí, đối tượng và mục đích giao kết hợp đồng của mình.
Tuy vậy, xuất phát từ sự bất lợi về vị thế giao kết và tiếp cận thông tin của một bên tham gia hợp đồng, BLDS và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cùng đưa ra nguyên tắc giải thích hợp đồng như sau: (i) Khoản 6 Điều 404 Bộ luật Dân sự quy định: “Trường hợp bên soạn thảo đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên kia thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên kia.”; (ii) Điều 15 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy địnhTrong trường hợp hiểu khác nhau về nội dung hợp đồng thì tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giải thích theo hướng có lợi cho người tiêu dùng”. Dưới góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nguyên tắc giải thích hợp đồng theo hướng có lợi cho người tiêu dùng như trên đã góp phần hạn chế rủi ro, bất lợi cho người tiêu dùng trong trường hợp hợp đồng giao kết có nội dung không đầy đủ, rõ ràng hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau.
Bên cạnh đó, về nội dung của hợp đồng, Luật BVQLNTD hiện hành chưa đặt ra quy định những nội dung tối thiểu/phải có trong hợp đồng theo mẫu, mà quy định dưới góc độ là nguyên tắc giải thích hợp đồng (như trên) và yêu cầu chung về tính rõ ràng, dễ hiểu của nội dung hợp đồng theo mẫu (Điều 7, Nghị định số 99/2011/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật BVQLNTD).
Đồng thời, với một số loại hình hợp đồng đặc thù như hợp đồng cung cấp dịch vụ liên tục, Khoản 1, Điều 18 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP quy định:
     “1. Hợp đồng cung cấp dịch vụ liên tục phải có những nội dung sau:
a) Tên, địa chỉ liên lạc của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ;
b) Mô tả dịch vụ được cung cấp;
c) Chất lượng dịch vụ;
d) Thời điểm và thời hạn cung cấp dịch vụ;
đ) Cách thức tính phí, giá dịch vụ;
e) Phương thức cung cấp dịch vụ và phương thức thanh toán.” 

Tương tự cách tiếp cận của Nghị định số 99/2011/NĐ-CP, một số quy định pháp luật chuyên ngành cũng quy định về hình thức và nội dung tối thiểu/(bắt buộc) phải có trong một số loại hợp đồng giao kết với khách hàng.  Theo đó, các nội dung cơ bản/phải có trong hợp đồng thường bao gồm: thông tin các bên; đối tượng của hợp đồng; chất lượng, giá cả của hàng hóa/dịch vụ; phương thức thanh toán/giao nhận; thời hạn của hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên; chấm dứt hợp đồng; vi phạm hợp đồng; giải quyết tranh chấp; nội dung khác do các bên thỏa thuận; v.v. Ngoài ra, hợp đồng giao kết có thể phải có những nội dung khác tùy thuộc đặc thù lĩnh vực ngành và đặc thù giao kết hợp đồng.
Có thể tham khảo một số quy định pháp luật chuyên ngành sau về nội dung tối thiểu/ phải có trong hợp đồng:
 (i) Điều 9 Luật Bưu chính năm 2010 quy định những nội dung chính phải có của hợp đồng cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính;
(ii) Điều 13 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010 quy định những nội dung phải có của hợp đồng bảo hiểm;
(iii) Điều 39 Luật Du lịch năm 2017 quy định các nội dung phải có trong hợp đồng lữ hành;
(iv) Điều 22 Luật Điện lực năm 2004 quy định những nội dung phải có trong hợp đồng mua bán điện có thời hạn;
(v) Điều 5 Thông tư 39/2016/TT-BTTTT quy định nội dung tối thiểu phải có trong hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung về cung cấp và sử dụng dịch vụ viễn thông;
(vi) Điều 13 Thông tư số 19/2016/TT-NHNN quy định nội dung tối thiểu của hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ ngân hàng;
(vii) Điều 10 Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định nội dung tối thiểu của hợp đồng  cho vay tiêu dùng; v.v.

Theo đó, để đảm bảo quyền lợi và tránh những tranh chấp phát sinh từ những điều khoản không đầy đủ, rõ ràng, người tiêu dùng lưu ý cần:
–  Yêu cầu doanh nghiệp cung cấp đầy đủ bộ hợp đồng dự định giao kết;
–  Nghiên cứu kỹ tất cả các điều khoản, nội dung của bộ hợp đồng. Khi thấy các nội dung trong hợp đồng chưa rõ ràng, đầy đủ thì cần đề nghị doanh nghiệp giải thích, làm rõ và sửa đổi, bổ sung, đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện của nội dung hợp đồng theo quy định pháp luật.
Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng thông tin để người tiêu dùng biết và doanh nghiệp lưu ý trong quá trình soạn thảo và giao kết hợp đồng.

Theo Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương)

Tin liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *