Một số giải pháp phát triển logistics của Thành phố Hà Nội trong bối cảnh mới

1. Đặt vấn đề

Logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tại Quyết định số 531/QĐ-TTg ngày 01/04/2021 của Thủ tướng, phê duyệt Chiến lược Tổng thể phát triển Khu vực dịch vụ của Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, xác định “Logistics cùng với dịch vụ du lịch; công nghệ thông tin và truyền thông; dịch vụ tài chính ngân hàng là bốn ngành dịch vụ hàng đầu được ưu tiên phát triển đến năm 2050”. Trong bối cảnh hoạt động thương mại toàn cầu có biến động, ngành Logistics đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Chính vì vậy, TP. Hà Nội cần có nhiều giải pháp hợp lý, kịp thời để tháo gỡ các điểm nghẽn, cũng như phát huy các thế mạnh của ngành này.

2. Khái quát một số hoạt động logistics của thành phố Hà Nội

Theo Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh logistics cấp tỉnh, trong thời gian hơn 1 năm (từ ngày 11/8/2022 đến tháng 11/2023) của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam và Viện Nghiên cứu Phát triển Logistics Việt Nam, Hà Nội giữ vị trí thứ 4 trong bảng xếp hạng Chỉ số năng lực cạnh tranh logistics cấp tỉnh (LCI).[1] Chỉ số này được tính trên cơ sở 5 trụ cột chính là Kinh tế, Dịch vụ logistics, Cơ sở hạ tầng, Nhân lực và Cơ sở pháp lý. Trong báo cáo lần này, các tỉnh và thành phố được lựa chọn dựa trên sự nổi bật về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), khối lượng hàng hóa luân chuyển và số lượng doanh nghiệp logistics. (Bảng 1)

Bảng 1. Danh sách xếp hạng chỉ số LCI theo địa phương và khu vực

Để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ vận tải và kho bãi, các doanh nghiệp logistics Hà Nội đã tập trung nguồn lực và khai thác các cơ hội và nhu cầu thị trường. Nhờ đó, doanh dịch vụ vận tải và kinh doanh kho bãi có chiều hướng tăng theo các năm. Doanh thu dịch vụ vận tải hàng hóa của Hà Nội năm 2019-2023 lần lượt là: 46345 tỷ đồng, 47386 tỷ đồng, 47052 tỷ đồng, 67988 tỷ đồng và 81528 tỷ đồng. Doanh thu dịch vụ kinh doanh kho bãi của Hà Nội năm 2019-2023 lần lượt là: 55197 tỷ đồng, 58665 tỷ đồng, 60477 tỷ đồng, 73350 tỷ đồng và 82007 tỷ đồng. (Hình 1)

Tính đến năm 2023, Thành phố có khoảng 25.000 [2] doanh nghiệp hoạt động logistics với các quy mô, cấp độ, loại hình, ngành nghề dịch vụ logistics khác nhau, với nhiều hình thức kinh doanh, bao gồm từ việc thực hiện dịch vụ nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá.

Trong số các doanh nghiệp hoạt động logistics, có khoảng 400 doanh nghiệp đang sử dụng gần 100ha (995.215m2) đất để kinh doanh cho thuê kho, bãi tập kết sản phẩm, hàng hóa, nguyên vật liệu chờ cung ứng, phân phối, tiêu thụ; với các quy mô từ kho, bãi có diện tích nhỏ nhất là 60m2 đến kho, bãi có diện tích lớn nhất là 63.014m2.

Một số kho bãi lớn đang được các doanh nghiệp logistics khai thác, vận hành như: Trung tâm Logistics Hateco tại quận Long Biên của Công ty Cổ phần Hateco Logistics, diện tích 12ha; Trung tâm Khai thác vận chuyển khu vực phía Bắc tại xã Kim Hoa, huyện Mê Linh, Hà Nội của Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam, diện tích 3,6ha. Bên cạnh đó, trên địa bàn Thành phố hiện nay đang từng bước hình thành đầu tư xây dựng mới các kho, bãi quy mô lớn như Cảng cạn ICD Hoài Đức 17,75ha tại huyện Hoài Đức, Cảng cạn ICD Gia Lâm 47,2ha tại huyện Gia Lâm, Trung tâm logistics hạng I 50ha tại huyện Sóc Sơn, Trung tâm logistics hạng II 22ha tại khu đô thị vệ tinh Phú Xuyên.[3]

Hiện nay, trên địa bàn TP. Hà Nội có 41 kho lạnh của các cơ sở sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản với diện tích 5.330m2. Với sức chứa của kho lạnh là 42.000m3, đảm bảo đáp ứng tốt khả năng bảo quản các sản phẩm nông lâm thủy sản yêu cầu bảo quản đặc biệt trong điều kiện thông thường và dịch bệnh. Các kho lạnh trên đều được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Đây là những kho hàng giúpcác doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản an toàn tiết kiệm
chi phí trong quá trình phân phối và lưu thông hàng hóa, rút ngắn giai đoạn sản xuất,
sản phẩm nhanh chóng có mặt trên thị trường.

3. Đánh giá tình hình phát triển logistics trên địa bàn thành phố Hà Nội

3.1. Kết quả đạt được

Trong thời gian qua, phát triển logistics trên địa bàn TP. Hà Nội đã đạt được một số kết quả sau:

- Hà Nội đã hình thành mạng lưới hạ tầng logistics, gồm hệ thống cảng cạn, trung tâm logistics, kho bãi, các tuyến đường bộ, đường sắt kết nối liên vùng và quốc tế. Hà Nội có vị trí chiến lược trong chuỗi cung ứng hàng hóa của cả nước và khu vực. Logistics của Hà Nội có quy mô và khả năng đáp ứng ngày càng lớn nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp logistics trên địa bàn thành phố Hà Nội đóng góp quan trọng vào tăng trưởng của Thành phố

- Dịch vụ logistics đang có tốc độ phát triển nhanh, nhiều doanh nghiệp mới thành lập hoạt động trong lĩnh vực logistics, chuyển phát, giao nhận, đa dạng về quy mô. Nhìn chung, các doanh nghiệp logistics trên địa bàn TP. Hà Nội từng bước đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, kho bãi hiện đại, ứng dụng khoa học công nghệ mới, thương mại điện tử và tham gia chủ động vào chuỗi giá trị toàn cầu.

- Ngày 12/12/2024, Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn 2050 được phê duyệt tại Quyết định số 1569/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các nội dung về phát triển hạ tầng kinh doanh dịch vụ logistics đã được tích hợp vào quy hoạch. Đây là tiền đề để ngành Logistics nâng cao hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng của Thủ đô. Bên cạnh đó, hình thành mạng lưới, hệ thống trung tâm logistics kết nối, gắn bó mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau giữa các địa phương.

- Công tác phát triển sản xuất, tái cơ cấu ngành nông nghiệp tiếp tục được
đẩy mạnh, đặc biệt phát triển các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, hàng hóa, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, gắn phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, đảm bảo an toàn thực phẩm, tích hợp dịch vụ logistics với các ngành sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh cơ giới hóa, giảm tổn thất trong quá trình thu hoạch, chế biến, bảo quản và hỗ trợ kết nối chủ hàng, nguồn hàng nông sản thực phẩm đến giao dịch, trung chuyển qua trung tâm logistics trên địa bàn Hà Nội.

3.2. Tồn tại, hạn chế

Mặc dù đã đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, phát triển logistics Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế:

- Về quy mô, sức cạnh tranh và khả năng cung ứng: Đa số doanh nghiệp logistics có quy mô nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp. Phần lớn, các doanh nghiệp logistics của Hà Nội hiện nay chỉ cung cấp dịch vụ cơ bản, cạnh tranh về giá là chủ yếu; còn yếu về tài chính, nhân sự, tổ chức mạng lưới, hệ thống thông tin, tính liên kết. Bên cạnh đó, hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số.

- Về cơ sở hạ tầng: Mặc dù đã đầu tư, đẩy nhanh tiến độ các dự án xây mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng nhưng đến nay vẫn là hạn chế lớn trong hoạt động logistics. Hệ thống kho hàng, bến bãi logistics tại Hà Nội còn nhỏ lẻ, thiếu nhiều loại hình kho lưu trữ hàng hóa. Số cảng cạn ít và chủ yếu sử dụng đường bộ, chưa kết nối với đường sắt, đường thủy… Thành phố có các cảng đường sông nhưng chưa phát huy được thế mạnh. Hệ thống đường sắt chưa được nâng cấp, thiếu thuận tiện.

- Về nguồn nhân lực: Theo số liệu từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội công bố tháng 12/2023: “Nhu cầu nhân lực ngành Logistics tăng trung bình 15% mỗi năm. Chỉ có 35% lao động trong ngành Logistics được đào tạo chuyên môn. 65% doanh nghiệp logistics gặp khó khăn trong tuyển dụng nhân sự có kỹ năng phù hợp”. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nguồn nhân lực phục vụ ngành Logistics đối mặt với việc thiếu hụt nhân lực có trình chuyên môn; chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành, các kỹ năng về công nghệ thông tin, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo các phần mềm logistics, kiến thức và kỹ năng về quản trị thu mua, quản trị vận tảikho hàng.

- Về liên kết, hợp tác: Thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp dịch vụ logistics với nhau và với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chưa phát huy được hiệu quả liên kết, phối hợp để cùng thu hút đầu tư, phát triển dịch vụ logistics liên địa phương, liên vùng, dựa trên các đặc điểm và thế mạnh để cùng tạo thành các chuỗi logistics tối ưu và hiệu quả.

- Về huy động các nguồn lực: Khó khăn trong việc huy động các nguồn lực xã hội để đầu tư hạ tầng giao thông, hạ tầng logistics. Hiện nay, trên địa bàn vẫn chủ yếu phụ thuộc nhiều vào vốn ngân sách nhà nước.

- Về phát triển bền vững: Logistics xanh và bền vững đang trở thành vấn đề quan trọng của các quốc gia trên thế giới. Logistics xanh đang ngày được quan tâm, nhằm giảm thiểu các tác động về sinh thái của hoạt động logistics. Việc ứng dụng logistics xanh sẽ giúp các doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí về môi trường, nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng trưởng bền vững. Việt Nam đã cam kết giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Chính vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, nếu các doanh nghiệp không thực hiện nhanh và ngay các tiêu chí xanh thì sẽ gặp nhiều khó khăn khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trong nước và nước ngoài.

4. Một số giải pháp phát triển logistics của thành phố Hà Nội trong bối cảnh mới

Năm 2025, thành phố Hà Nội đặt mục tiêu tăng trưởng GRDP từ 8% trở lên và tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2030. Để đạt mục tiêu trên, Thành phố cần thúc đẩy một số ngành, lĩnh vực có triển vọng tăng trưởng cao, trong đó có logistic. Trong thời gian tới, Thành phố cần quan tâm một số giải pháp:

Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics. Nghiên cứu, xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ logistics phù hợp với đặc điểm kinh tế-xã hội Thành phố và bối cảnh hội nhập quốc tế.

- Nghiên cứu sửa đổi, cập nhật những quy định liên quan đến đầu tư phát triển logistics. Ưu tiên bố trí ngân sách hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, xã hội hóa nguồn lực, góp phần nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics.

- Hỗ trợ xây dựng những doanh nghiệp lớn về logistics, đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài và xuất khẩu dịch vụ logistics, tạo định hướng và động lực phát triển thị trường. Rà soát các cam kết quốc tế về dịch vụ logistics tại WTO, ASEAN và các hiệp định thương mại tự do, từ đó hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng, xử lý tranh chấp liên quan đến hoạt động logistics...

- Hỗ trợ các doanh nghiệp dịch vụ logistics, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn vốn, phát triển thị trường, đào tạo, tiếp cận thông tin.

- Thường xuyên đối thoại, tháo gỡ khó khăn kịp thời cho các doanh nghiệp logistics. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo thị trường trong nước và quốc tế để cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Tăng cường tổ chức đoàn khảo sát, diễn dàn, hội thảo để tạo điểm hẹn kết nối cho các doanh nghiệp logistics trong và ngoài nước, nhà đầu tư và các bên liên quan gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, tìm kiếm cơ hội hợp tác, hướng tới những đột phá mới trong lĩnh vực này.

- Nghiên cứu cơ chế chính sách để phát triển ngành Logistics gắn với xu thế phát triển hiện nay là phát triển logistics xanh, bền vững, ứng dụng công nghệ cao để đón đầu xu thế tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; Chiến lược ứng phó với biến động cước vận tải quốc tế; Xu hướng logistics trong thương mại điện tử và tác động đến thị trường; Giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh và phát triển chuỗi cung ứng bền vững...

Hai là, tập trung phát triển hạ tầng giao thông, hệ thống giao thông thông minh, các nền tảng kết nối giữa các chủ hàng, nhà giao vận và khách hàng. Đảm bảo tính đồng bộ của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics. Tiếp tục xây dựng các trung tâm logistics có quy mô phù hợp trên các tuyến đường vành đai, kết nối các đầu mối gom hàng, các kho tập kết, phân phối hàng hóa tại các khu vực tập trung sản xuất  nông nghiệp, công nghiệp, khu công nghiệp; phát triển hệ thống kho bãi, kho hàng chuyên dụng…

Ba là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính, giải quyết các thủ tục hành chính (mức độ 3,4) nhanh chóng, thuận tiện cho các hoạt động hỗ trợ logistics như công thương, hải quan, thuế, giao thông vận tải…

Bốn là, khuyến khích, kêu gọi các nhà cung cấp dịch vụ logistics lớn trên thế giới và các doanh nghiệp logistics trong nước đặt trụ sở, chi nhánh và văn phòng giao dịch trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm từng bước xây dựng Thủ đô thành trung tâm điều hành logistics của khu vực miền Bắc. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các địa phương lân cận trong vùng Thủ đô, vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và với các tỉnh, thành phố trong cả nước nhằm tạo thuận lợi cho sự giao lưu vận chuyển, phân phối hàng hóa. Tăng cường huy động các nguồn lực cho phát triển logistics theo hướng xã hội hóa.

Năm là, khuyến khích các doanh nghiệp logistics trên địa bàn cần đẩy mạnh cung cấp dịch vụ logistics trọn gói 3PL[4], 4PL[5]; triển khai các dịch vụ logistics trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và giao dịch điện tử để hướng đến cung cấp dịch vụ logistics trọn gói 5PL[6]; ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, vận hành chuỗi cung ứng và dịch vụ logistics chuyên nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm chi phí.

5. Kết luận

Logistics là một ngành rất quan trọng, có tác động đến sự phát triển bền vững, lâu dài cho tăng trưởng kinh tế Thành phố. Để góp phần thúc đẩy tăng tưởng, trong thời gian tới, Thành phố cần quan tâm hơn nữa đến các giải pháp để phát triển logistics theo hướng xanh, bền vững, ứng dụng công nghệ cao để đón đầu xu thế tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; các giải pháp ứng phó với biến động cước vận tải quốc tế; xu hướng logistics trong thương mại điện tử và tác động đến thị trường; giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh và phát triển chuỗi cung ứng bền vững./.

Phạm Hồng Nhung Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội

 

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

[1]Trong báo cáo lần đầu thực hiện, 26 tỉnh và thành phố đã được lựa chọn dựa trên sự nổi bật về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), khối lượng hàng hóa luân chuyển và số lượng doanh nghiệp logistics. 5 địa phương trong danh sách chưa được đánh giá do không nhận được phiếu kết quả khảo sát đầy đủ của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics (LSP) là Lạng Sơn, Thái Nguyên, Nghệ An, Thanh Hóa và Thái Bình.

[2,3]Báo cáo Kết quả thực hiện Kế hoạch Hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 của UBND thành phố Hà Nội (Số 366/UBND-KTN ngày 02/02/2024)

[4]Logistics thuê ngoài, dịch vụ logistics được bên thứ ba cung cấp, nhưng đơn lẻ

[5]Chuỗi logistics, dịch vụ logistics được cung cấp đầy đủ, một “chuỗi”

[6]E-logistics, Logistics trên nền thương mại điện tử

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Cục Thống kê thành phố Hà Nội (Nay là Thống kê thành phố Hà Nội) (2024), “Niên giám thống kê thành phố Hà Nội năm 2023”.

Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (2023), Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh logistics (LCI) cấp tỉnh Việt Nam 2022.

Hiệp hội Logistics Hà Nội (2024), Báo cáo tổng kết năm 2024 và triển khai hoạt động trong năm 2025.

UBND thành phố Hà Nội (2018), Quyết định số 814/QĐ-UBND ngày 13/2/2018 về Phê duyệt Đề án “Quản lý và phát triển hoạt động logistics trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2025”.

UBND thành phố Hà Nội (2024), Báo cáo “Kết quả thực hiện Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025” (Số 366/UBND-KTN ngày 02/02/2024).

Nguồn: Tạp chí Công Thương

Danh sách bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. các trường bắt buộc được đánh dấu (*)